Phân loại và đặc điểm Chất độc ngạt thở

Phosgene (CG)[1]

  • Liều loại khỏi vòng chiến đấu trung bình ICt50-160 mg.phút/m3, liều tử vong trung bình LCT50-32.000 mg.phút/m3.

Diphosgene (SP)[1]

  • Diphosgenechất lỏng sánh như dầu, không màu, mùi giống như mùi phosgene, nhiệt độ sôi 128°C, nhiệt độ đông đặc -57°C độ bay hơi 120 mg/L (ở 20°C), hầu như không tan trong nước, dễ tan trong các dung môi hữu cơ và một số chất độc như chloropicrin, phosgene, yperit.

Chloropicrin (PS)[1]

  • Chloropicrin (nitrochloroform), chất độc mau tan, chất lỏng, màu vàng nhạt, mùi hắc, tỉ trọng 1,66, nhiệt độ sôi 113°C, nhiệt độ đông đặc -66,2°C, chất ưa mỡ, với nồng độ 0,009 mg/L gây kích thích và chảy nước mắt giàn giụa (dùng để kiểm tra chất lượng mặt nạ phòng độc), liều LD50 2 mg/L (trong 10-15 phút) gây phù phổi.
  • Cơ chế tác hại: khi chất độc xâm nhập vào các tế bào biểu mô của phế quản, phế nang, chúng bị thủy phân sinh ra acid hydrochloric.
  • Phosgene và diphosgene cùng với acid hydrochloric mới sinh làm thay đổi các tính chất lí - hóa của tế bào. Sự hình thành các chất tựa histamin làm tăng tính thẩm thấu của mao mạch và phế nang, đồng thời phá vỡ thế cân bằng acid-base trong mô phổi.
  • Huyết tương chảy vào khoang trống của phế nang gây nên hiện tượng phổi đọng nước (phù phổi). Nạn nhân khó thở, trúng độc nặng có thể chết do ngạt thở.
  • Chưa có thuốc giải độc, điều trị dựa vào triệu chứng trúng độc, sử dụng các loại thuốc để cải thiện hoạt động của hệ tim mạchhệ thần kinh trung ương nhằm hạn chế và giảm thiểu phù phổi, khắc phục hiện tượng giảm oxy mô bằng cách cho thở oxy, đồng thời sử dụng thuốc chống biến chứng.